Tài khoản
Xuất phát từ tính chất của vùng đất đang trong quá trình ly khai và mở rộng quản lý lãnh thổ nên chúa Nguyễn rất chú trọng đến việc võ bị. Chính vì vậy mà quân đội Đàng Trong được đánh giá là một lực lượng hùng mạnh trong khu vực thời bấy giờ.
PHẦN II : Các binh chủng của quân đội thời chúa Nguyễn
Quân đội chúa Nguyễn được phân chia thành nhiều binh chủng để phù hợp với tính năng, chiến trường, sở trường chiến đấu, cùng phối hợp trên các mặt trận nhằm phát huy hết khả năng để đạt kết quả cao nhất. Quân đội chúa Nguyễn bao gồm các binh chủng sau: Bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và đội quân thám báo.
1. Bộ binh
Bộ binh là binh chủng quan trọng nhất của quân đội Đàng Trong. Từ thời chúa Nguyễn Hoàng cho đến các chúa về sau, số lượng bộ binh không ngừng được tăng lên. Bộ binh được chia đặt ở Chính dinh và các dinh, trấn khác; tùy vào vị thế của từng nơi mà số lượng phân bổ khác nhau. Quân đội chúa Nguyễn đã được chia đặt thành cơ, đội, thuyền, nên bộ binh cũng được phiên chế theo các đơn vị đó.
Khi tổ chức các đơn vị trong quân đội, chúa Nguyễn đã chú trọng đến việc bố trí số lính cùng một xã tập hợp lại cùng một thuyền, đội. Điều này tạo ra sự đoàn kết, cùng khả năng hỗ trợ chiến đấu cao hơn. Ngoài việc chiến đấu vì sự nghiệp chung của Đàng Trong, họ còn chiến đấu để bảo vệ lẫn nhau; khi đó những người cùng quê hương, có khi là tình anh em hay họ hàng sẽ dễ dàng cố kết hơn. Một tờ Thị điều chuyển lính thủy vào năm 1702 đã cho thấy điều đó: “Dạy: Các quan và hai thuyền đẳng là Hiền Nhất thuyền thuộc Tiền Thủy cơ và Hiền nhị thuyền thuộc Hậu thủy dinh đã có đơn thân rằng: Do lệ cũ trước đây Hiền nhất thuyền lấy lính làng Hồng Phước[1] 30 người, lính 3 huyện 30 người, Hiền nhị thuyền lính 3 huyện. Cho đến nay Hiền nhất thuyền còn lính làng Hồng Phước 22 người, Hiền nhị thuyền lính làng Hồng Phước 8 người xin quy hoàn về Hiền nhất thuyền làm một. Vì thế cấp phó cho 8 người lính làng Hồng Phước ở Hiền nhị thuyền phải quy về Hiền nhất thuyền, 8 người lính 3 huyện ở Hiền nhất thuyền quy hoàn về Hiền nhị thuyền”[2].
So sánh về cuộc duyệt binh[3] vào năm 1653, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần tại xã An Cựu chép trong Đại Nam thực lục tiền biên và những số liệu chép trong Phủ biên tạp lục[4] của Lê Quý Đôn cho thấy sự trùng khớp về số lượng, tên gọi các cơ, đội, thuyền ở Chính dinh. Vì vậy, có thể khẳng định quân số được kê ở bảng dưới đây đều thuộc về thời chúa Nguyễn Phúc Tần. Còn quân số của các dinh như Trấn Biên (1698), Phiên Trấn (1698), Hà Tiên (1708), Long Hồ (1732), thuộc về thời chúa Nguyễn Phúc Chu trở về sau, vì các dinh này được thành lập từ sau thời chúa Nguyễn Phúc Tần.
Stt |
Tên dinh/trấn |
Số cơ |
Số đội |
Số thuyền |
Số người |
1 |
Chính dinh |
21 |
21 |
352 |
17.168[5] |
2 |
Dinh Cát (Cựu dinh) |
5 |
|
26 |
1188 (chưa kể 21 lính tạp binh) |
3 |
Lưu Đồn |
8 |
|
87 |
4282 người |
4 |
Quảng Bình (Dinh Trạm) |
7 |
2 |
51 |
2629 |
5 |
Dinh Ngói |
1 |
3 |
27 |
1345 |
6 |
Quảng Nam |
2 |
3 |
32 |
? |
7 |
Bình Khang |
2 |
1 |
21 |
? |
8 |
Bình Thuận |
1 |
2 |
12 |
? |
9 |
Trấn Biên |
1 |
2 |
14 |
? |
10 |
Phiên Trấn |
1 |
3 |
16 |
? |
11 |
Long Hồ |
0 |
3 |
14 |
? |
12 |
Hà Tiên |
0 |
3 |
8 |
|
(Nguồn: Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp luc, Sđd, tr. 196-214).
Số lượng bộ binh trên đây của các dinh, trấn là những đội quân chính binh được nhà nước cấp lương, lĩnh tại kho lương của nhà nước.
Bộ binh dưới thời chúa Nguyễn là lực lượng chiếm số lượng lớn nhất so với các binh chủng còn lại. Vũ khí mà bộ binh chúa Nguyễn dùng phần lớn vẫn là đao, kiếm, gươm, giáo, còn như súng hỏa mai và các loại súng tay khác chiếm khoảng 1/3. Có một đặc biệt là ở hầu hết tất cả các cơ đều có một đội hoặc một thuyền có sử dụng súng.
Dưới thời chúa Nguyễn, các con số thống kê của các người nước ngoài đến Đàng Trong đương thời hoặc nghe người khác kể lại cho biết thêm về số lượng bộ binh như sau:
Vào năm 1656, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, Choisy cho biết số lượng bộ binh gồm: “Đoàn quân trên bộ gồm 30.000 người. Ở dinh thự của vua [chúa] có 9.000 người, của ông hoàng cả 5.000; ông hoàng thứ hai 3.000; ông hoàng thứ ba 2.000 người. Số quân còn lại năm ở biên giới, nơi đó vị tổng chỉ huy luôn có nơi cư trú”[6].
Theo thống kê của Vachet vào năm 1674, cũng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần (sau 19 năm con số mà Choisy đưa ra), số lượng bộ binh đã tăng đáng kể: “Bộ binh ở Đàng Trong có khoảng 40.000 người, trong số này, 15.000 đóng tại biên giới phía bắc của lãnh thổ, 9.000 tại phủ chúa, 6.000 làm thị vệ cho các hoàng thân, và 10.000 người đóng ở các trấn dưới lệnh của các quan Trấn thủ”[7].
Gemelli Cereri ở thời điểm năm 1695 (thời chúa Nguyễn Phúc Chu) cho biết: “Vua [chúa] xứ Đàng Trong chỉ có 50 nghìn bộ binh pháo thủ và quân của Đàng Ngoài thì hơn 100 ngàn; tuy nhiên người Đàng Trong những chiến binh ưu tú và họ lại được bao bọc bởi một dãy nũi dài ngăn đôi hai vương quốc, họ đối đầu với quân Đàng Ngoài”[8].
2. Thuỷ binh
Thuận Quảng là vùng đất hẹp theo chiều ngang, địa hình bị cắt xẻ bởi những con sông chạy theo hướng Đông Tây. Phía Đông là một dải đồng bằng nuôi sống cả vùng, các cơ sở đều nằm gần ngay sát biển. Thích Đại Sán đã gọi biển Đàng Trong là: “Cửa biển là cửa ngõ của Vương đô, Thuận Hóa, để đi thông qua các phủ khác. Vì đất nước Đại Việt chỉ là một dãi núi dọc theo mé biển, các đô ấp đều tựa núi day mặt ra biển, núi cao sông hiểm, cây rừng rậm rạp….”[9].
Để phù hợp với địa hình gắn liền với biển và những sông ngòi dày đặc, các chúa Nguyễn đặc biệt rất coi trọng xây dựng thủy quân. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy Từ đã biên soạn cuốn binh thư gọi là Hổ trướng khu cơ để dạy lại phép dùng binh, trong đó ông giành riêng một thiên thủy chiến dạy cách vận dụng trong việc chiến đấu dưới nước như: phép lấy nước ngọt trong biển, phép phá xích sắt, phép đặt tên ngầm dưới nước, phép đóng cọc lòng sông… [10].
Thủy binh cũng được tổ chức theo cơ, đội, thuyền. Hầu như tất cả các dinh và phủ ở Đàng Trong đều có sự bố trí của thủy quân, trừ dinh Lưu Đồn. Thủy quân vừa đóng góp vào việc bình định mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam vừa chống lại quân chúa Trịnh để giữ vững biên giới phía Bắc.
Dưới đây là bảng thống kê số lượng thủy binh ở Đàng Trong:
Stt |
Tên dinh/trấn |
Số cơ |
Số đội |
Số thuyền |
Số người |
1 |
Chính dinh |
4 |
4 |
106 |
8815 |
2 |
Dinh Cát (Cựu dinh) |
|
1 |
2 |
110 |
3 |
Lưu Đồn |
0 |
0 |
0 |
0 |
4 |
Quảng Bình (Dinh Trạm) |
3 |
1 |
9 |
606 |
5 |
Dinh Ngói |
3 |
|
13 |
444 |
6 |
Quảng Nam |
3 |
2 |
21 |
? |
7 |
Bình Khang |
|
3 |
9 |
? |
8 |
Bình Thuận |
|
1 |
2 |
? |
9 |
Trấn Biên |
|
1 |
4 |
|
10 |
Phiên Trấn |
|
1 |
3 |
|
11 |
Long Hồ |
0 |
0 |
0 |
0 |
12 |
Hà Tiên |
|
3 |
3 |
? |
(Nguồn: Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, Sđd, 196-214)
Dinh Quảng Nam là dinh thứ hai sau Chính dinh được bố trí quân thủy nhiều nhất với 21 thuyền. Vì đây là vùng luyện tập của thủy quân, đóng thuyền chiến, có các cửa biển quan trọng (cửa Đại, cửa Hàn), là cửa ngõ buôn bán thông thương với các nước trên thế giới; đồng thời là nơi cung cấp nhân vật lực quan trọng cho công cuộc mở rộng lãnh thổ về phía Nam.
Để có một lực lượng thủy binh mạnh, ngoài số lượng quân lính nhiều thì vấn đề trang bị thuyền chiến và vũ khí là một yếu tố hết sức quan trọng. Là một vùng đất có nhiều loại gỗ quý, phù hợp cho việc đóng thuyền nên thuyền chiến ở Đàng Trong khá phát triển. “Đàng Trong là một dãy núi dài, giữa các ngọn núi là các thung lũng và đồng bằng được canh tác kỹ lưỡng. Cao nguyên bỏ mặc cho hổ, voi và các loại dã thú. Những ngọn núi tuy không ai canh tác gì nhưng rừng cây và gỗ ở đây rất nhiều tiện ích. Người Đàng Trong lấy trong rừng nào là gỗ hồng (rosewood: xoan đào?), gỗ mun, gỗ lim, gỗ táu, quế, trầm hương nói chung là mọi thứ gỗ dùng làm nhà, đóng thuyền....”[11]. Theo ghi nhận, những xưởng đóng thuyền lớn nhất của Đàng Trong tập trung ở Chính dinh bên bờ sông Hương và làng Hà Mật ở dinh Quảng Nam[12]. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn có đề cập đến trường đóng tàu[13] ở Quảng Nam và làng Lý Hòa ở Quảng Bình. Chiến thuyền của chúa Nguyễn được phân biệt độ lớn nhỏ dựa trên tay chèo và trang bị đại bác trên chiến thuyền. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm 1621, Cristoforo Borri cho biết chúa có khoảng 100 chiến thuyền luôn sẵn sàng xung trận, được trang bị súng đại bác và những người lính trên chiến thuyền đều là những thủy thủ giỏi được trang bị thêm súng hỏa mai, với đạn, dao hay mã tấu. Đến năm 1625, Alexandre de Rhodes cho biết chúa Nguyễn có 200 chiến thuyền. Sang thời chúa Nguyễn Phúc Lan, vào năm 1642, có đến 230-240 chiến thuyền; mỗi thuyền có 64 người gồm người chèo thuyền và binh lính, mỗi thuyền trang bị một khẩu súng thường bắn 4, 5 , 6 hoặc 8, 10 đạn sắt và hai khẩu súng lớn[14]. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, trong một trận đánh ra Đàng Ngoài (1655-1660), chúa đã huy động tới 100 chiến thuyền và đã giành thắng lợi lớn, thu về 76 chiến thuyền của chúa Trịnh. Vào năm 1679, theo ghi nhận của Choisy, ở Chính dinh có 131 chiến thuyền, Dinh Cát ở biên giới với Đàng Ngoài[15] có 30 chiếc; trấn thủ dinh Chiêm có 17 chiếc; trấn thủ dinh Niaroux (?) có 15 chiếc, mỗi thuyền có 6 khẩu đại bác cỡ nhỏ, cùng với 60 lính hay tay chèo[16]. Thuyền chiến dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng cũng như trang bị súng thần công. Theo ghi nhận của Thomas Bowyear năm 1695, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, thấy có 200 chiếc thuyền lớn, mỗi chiếc có từ 16-22 khẩu đại bác; 500 chiếc thuyền nhỏ, 40-44 tay chèo và 100 chiến thuyền từ 50 đến 75 tay chèo, 3 chiếc của người châu Âu. Những chiến thuyền đó đều do xưởng đóng tàu của chúa đóng. Xưởng đóng ở Hà Mật có tới 4000 thợ thạo nghề đóng và đóng được những chiến thuyền trọng tải tới 400 tấn”[17]. Trong một mô tả của tác giả Alexis Marie de Rochon cho biết Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát có khoảng 300 chiến thuyền: “gần 300 chiến thuyền mà vào thời chiến được dùng để di chuyển lính từ nơi này sang nơi khác...”[18]. Ngoài tính năng chiến đấu, chiến thuyền của chúa Nguyễn cũng được xem là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo khi chúng được sơn hai màu chủ đạo là đỏ và đen bóng loáng, mũi thuyền được làm rất công phu nơi vị chỉ huy đứng để điều khiển chiến thuyền, các mái chèo đều thếp vàng.
Trong các bộ sử triều Nguyễn và Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đề cập rất nhiều tới một loại thuyền đó là ghe bầu ở Quảng Nam. Nó không chỉ là một loại thuyền dùng trong ngành thương mại mà còn là một trong những loại thuyền được sử dụng để vận chuyển quân lương dưới thời chúa Nguyễn. Ở các dinh gần cuối về phía Nam của Đàng Trong đều được trang bị các ghe bầu hải sư[19].
Ngoài ra, các thuyền đánh cá đều được huy động vào công tác chiến đấu và vận chuyển người, lương thực, các nhu yếu phẩm, vũ khí khi được điều động. Theo mô tả của Thích Đại Sán thì hầu như tất cả các thuyền đánh cá đều được huấn luyện như quân lính. Khi đưa rước nhà sư có sự hỗ trợ của thuyền Điến xá và Điền cô (thuyền đánh cá), lúc đầu huy động 8 chiếc nhưng sau lên 40 chiếc[20]. Các ngư dân cũng chính là những thủy quân hùng mạnh vì họ được huấn luyện rất chuyên nghiệp, nghe hiệu lệnh của một người mà tất cả các thuyền đều theo hiệu lệnh. Các chúa Nguyễn đã biến những ngư dân thành những thủy quân tài ba với khả năng quen với sóng biển, thuộc lòng từng con nước, cùng với việc sử dụng thành thạo các loại vũ khí. Trong một mô tả khác của Thích Đại Sán cho thấy thuyền đánh cá ở Đàng Trong có số lượng rất lớn: “Quay nhìn xuống biển, thấy thuyền cá nghìn buồm đứng chong. Vì đứng trên cao nhìn xuống, nên trông thấy hình như mọi thuyền đều đứng yên”[21].
Chiến thuyền của Đàng Trong cũng giống như của Đàng Ngoài, cả hai đều có thuyền nhanh nhẹn và sẵn sàng xung chiến[22]. Theo đánh giá của Cristoforo Borri thì chiến thuyền của Đàng Trong rất lanh lẹ: “Thuyền chiến của họ không lớn cũng không đặc biệt rộng như của ta, nhưng rất lanh lẹ và được trang trí vàng bạc trong rất ngoạn mục. Đặc biệt mũi thuyền vốn được coi là chỗ trọng vọng nhất thì toàn bằng vàng. Đó là chỗ của thuyền trưởng và của những người có chức vị cao, và lý do là người Thuyền trưởng luôn luôn phải là người đầu tiên xuất trận, thế cho nên rất hợp lí, vì mục đích đó mà ông đứng ở đằng đầu và ở chỗ nguy hiểm nhất trong chiếc thuyền”[23].
Vào nửa sau thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn không còn dành nhiều thời gian chăm lo võ bị, chỉ ham mê ăn chơi xa hoa, thuyền chiến theo đó cũng thay đổi chức năng, từ hỗ trợ chiến đấu trong quân đội sang phục vụ cho các cuộc du ngoạn của chúa. Pierre Poivre miêu tả: “Một người nước ngoài chỉ thấy những chiếc thuyền chèo của nhà vua [chúa] đã có ý niệm hình thành thiện chí về xứ Đàng Trong, mặc dù dường như chúng được thiết kế để chơi hơn là công việc, chúng là những tác phẩm nghệ thuật và có tính thẩm mỹ cao”[24]. Trong một mô tả khác, ông cho rằng nếu như trước đây các chiến thuyền của Đàng Trong có thể đánh bại được hạm đội của Hà Lan thì đến bây giờ dù số lượng có nhiều đến bao nhiêu thì cũng chẳng bao giờ có thể đương đầu nổi với 4 con tàu được trang bị cho một cuộc viễn chinh[25].
3. Tượng binh
Tượng binh có số lượng ít hơn so với các loại binh chủng trên. Tuy vậy, đây là đội quân mạnh, có thể làm thay đổi cục diện của chiến trận. Sức mạnh quân đội Đàng Trong, phụ thuộc rất nhiều vào tượng binh. Thích Đại Sán cho biết: “Chiến trường lùa tượng đánh”[26].
Sở dĩ Đàng Trong xây dựng được đội quân tượng binh mạnh là nhờ vào ưu đãi của tự nhiên. Nhiều tư liệu khác nhau của những người có mặt ở Đàng Trong đương thời cho biết vùng này có rất nhiều voi, như Borri đề cập đến rừng ở Đàng Trong voi rất nhiều và rất to[27]. Thích Đại Sán, Pierre Poivre hay Choisy đều chép trong tác phẩm của mình thừa nhận Đàng Trong có rất nhiều voi[28]. Voi được chúa Nguyễn cho thợ săn bắt về. Jean Koffer cho biết: “Có những thợ săn rãi khắp các tỉnh để làm công việc bắt voi”[29]. Bên cạnh đó, voi cũng được bổ sung đáng kể vào tượng binh qua những lần nộp cống của các nước Champa, Chân Lạp, Ai Lao (Vạn Tượng), Thủy Xá, Hỏa Xá. Thường thì các nước phải nộp cống 5 con voi đực; nhưng có những năm để lấy lòng chúa Nguyễn các nước này nộp cống lên đến vài chục con. Như vào năm 1690, Chân Lạp nộp cống 30 thớt voi nhỏ[30]. Chúa Nguyễn còn có một nguồn voi được cung cấp nữa đó là thông qua nộp thuế sản vật của các địa phương. Đối với việc quy định nộp thuế ở Đàng Trong, ngoài tiền, thóc và các thứ khác ra thì đối với thuế nguồn ở các châu, đạo miền núi thì tùy vào khả năng nộp của châu đó mà quy định, có nơi thì nộp 1 con voi đực với kích thước được quy định 5 thước, 5 tấc như châu Sa Bôi, đạo Mường Vang[31]. Ngoài ra, voi còn được bổ sung từ chiến lợi phẩm sau các trận đánh thắng trước chúa Trịnh, Champa, Chân Lạp.
Voi sau khi được huấn luyện, đến độ tuổi 15 - 16 thì có thể dùng vào chiến trận. Để tăng cường sức mạnh lúc tác chiến, voi còn được đặt đại bác, hoặc có khi voi chuyên chở các vật nặng để hỗ trợ cho quân đội. Borri cho biết: “Khi có chiến tranh và trận mạc thì người ta nhấc mùi bành đi để làm thành một thứ chòi chở lính giao chiến với nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để chở vì là con vật rất khỏe, nếu không có gì khác. Chính tôi đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con khác chở một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và đưa xuống biển… Chúng dễ dàng ném xuống đất và lật đổ nhà cửa, triệt hạ từng dãy phố khi được lệnh trong trận chiến để phá hoại quân địch và trong thời bình để không cho ngọn lửa bén khi có hỏa hoạn”[32]. Như vậy, ngoài việc dùng voi để đánh trận, nó còn được sử dụng để vận tải người, vũ khí và lương thực phục vụ cho chiến trận. Đặc biệt voi còn dùng để dập lửa khi trong vương quốc có hỏa hoạn.
Về số lượng tượng binh, theo Alexis Marie de Rochon thì chúa Nguyễn có một đội quân tượng binh rất hùng mạnh: “Tiểu vương này còn nuôi khoảng 400 con voi chiến và số lượng voi này nói lên sức mạnh của vương quốc”[33]. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, vào thời điểm năm 1642, Đàng Trong có 600 con voi[34]. Trong đợt chiến tranh Trịnh - Nguyễn lần thứ năm (1655 - 1660), chúa Nguyễn Phúc Tần đã huy động tới 300 thớt voi để tiếp ứng[35]. Trong trận chiến cuối cùng với Đàng Ngoài năm 1672, chúa Nguyễn đã huy động ở mặt trận Quảng Bình 5 cơ voi với 150 thớt voi[36].
Tượng binh được tổ chức thành các cơ. Ở Chính dinh có các tượng cơ: cơ Nội tượng 35 người, cơ Tả tượng, quản mục và quân bắn 32 người, cơ Hữu tượng 194 người, cơ Tiền tượng 94 người, cơ Hậu tượng 48 người. Ngoài Chính dinh, các dinh khác cũng được bố trí tượng binh, tùy thuộc vào từng vị trí của từng dinh mà các chúa Nguyễn cho bố trí số lượng tượng binh phù hợp.
Số lượng tượng binh ở các dinh được Lê Quý Đôn đề cập khá chi tiết trong Phủ biên tạp lục. Ở dinh Cát có cơ Kiên tượng, quản mục và quân bắn 30 người . Dinh Lưu Đồn có cơ Trung tượng, quản mục, lương y, cắt cỏ voi (160 người) và cơ Tân tượng 46 người. Dinh Quảng Bình có cơ Trung tượng 81 người, cơ Trạm tượng, quản mục 16 người. Dinh Ngói châu Bố Chính có quản mục, cắt cỏ cho voi 42 người. Dinh Quảng Nam có cơ Trung tượng, cơ Tả tượng, cơ Hữu tượng. Dinh Bình Khang, tượng binh thì có 2 cơ Trung tượng và Bình tượng. Dinh Trấn Biên phủ Gia Định có Trường để dạy voi, được canh giữ bởi các đội Hùng ngự, có ba thuyền là Nhuệ Nhất, Nhuệ nhị, Nhuệ tam giữ trường voi[37]. Dinh Long Hồ chỉ thấy chép có quan coi voi.
Dinh |
Số lượng tượng binh |
|
Chính dinh |
Số cơ |
Số người |
5 |
403 |
|
Dinh Cát |
1 |
30 |
Lưu Đồn |
2 |
206 |
Quảng Bình |
2 |
97 |
Dinh Ngói |
|
42 |
Quảng Nam |
3 |
|
Bình Khang |
2 |
|
Bình Thuận |
|
|
Trấn Biên |
Trường voi |
|
Phiên Trấn |
|
|
Long Hồ |
Có quan coi voi |
|
(Nguồn: Lê Qúy Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, Sđd, tr.196-214)
Như vậy, có thể thấy sự phân bổ tượng binh ở các dinh có khác nhau, chủ yếu chỉ được bố trí ở Chính dinh, các dinh trên đất Quảng Bình, dinh Quảng Nam và Bình Khang. Còn các dinh Bình Thuận, Phiên Trấn và trấn Hà Tiên không có sự hiện diện của tượng binh.
5. Kỵ binh
Kỵ binh là lực lượng rất linh động và có tốc độ nhanh nên có thể dùng trong những việc cần kíp, điều động gấp. Chúa Nguyễn cũng rất coi trọng kỵ binh. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã từng nói với các quan rằng: “Ngựa lại là vật cần trong lúc hành binh, người xưa vẫn quen dùng. Cần phải cho luyện tập để tăng thêm binh uy”[38]. Ở Đàng Trong có các giống ngựa quý như ngựa Ký, ngựa Kỳ, cũng có nhân tài giỏi chọn ngựa như Bá Nhạc, Đổng Quán[39]. Dưới thời chúa Nguyễn có các lương y chỉ dành riêng để chữa trị cho ngựa và có những đội chỉ duy nhất làm một việc là cắt cỏ cho ngựa ăn. Có thợ chỉ chuyên làm yên ngựa được gọi là thợ yên ngựa và thợ khấu ngựa[40]. Người đứng đầu đội kỵ binh cũng thuộc hàng thân thuộc của các chúa, như Nguyễn Cửu Kiều (con rể của chúa Nguyễn Phúc Nguyên) được ghi nhận là người làm Cai đội Mã cơ đầu tiên dưới thời chúa Nguyễn được sử ghi chép[41]. Tuy nhiên, do ở Đàng Trong điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc chăn nuôi ngựa[42], khí hậu nóng ẩm, không có các thảo nguyên lớn. Hơn thế nữa, địa hình Đàng Trong nhiều sông ngòi, kênh rạch, đầm lầy nên kỵ binh khó phát huy được thế mạnh của mình. Do đó, trong các loại binh chủng của chúa Nguyễn, kỵ binh ít đóng vai trò quan trọng hơn cả.
Kỵ binh được phiên chế thành đội, một đội khoảng trên 40 người. Số lượng kỵ binh được xây dựng và tổ chức tương đối ít. Ngay ở Chính dinh cũng chỉ bố trí hai đội là Tả mã và Hữu mã, còn lại các dinh có kỵ binh đều bố trí một đội. Do sự linh động và tốc độ nên kỵ binh thường được bố trí ở những nơi biên giới như dinh Lưu Đồn bố trí một mã đội 40 người, dinh Quảng Bình cũng được bố trí mã đội 40 người, dinh Ngói châu Bố Chánh có mã đội 49 người, dinh Bình Khang có đội Tả mã, dinh Phiên Trấn có mã đội[43], dinh Long Hồ có quan coi ngựa. Các dinh còn lại như Dinh Cát, Quảng Nam, Trấn Biên và trấn Hà Tiên không thấy có bố trí kỵ binh.
6. Do thám /Thám báo
Đội quân thám báo hay còn gọi là do thám, thám tử, có nhiệm vụ hoạt động trong trận tuyến bí mật nhằm nắm bắt tình hình của địch. Đàng Trong có thể hóa giải được các cuộc tấn công của Đàng Ngoài là nhờ đội quân do thám nắm bắt được thông tin trước mỗi lần xuất quân hay kế hoạch và cả các hình thức đánh của quân chúa Trịnh. Qua đó, Đàng Trong kịp thời có cách đối phó hợp lý. Duijcker ghi nhận: “Vì rằng, tất cả những gì xảy ra ở trong triều đình Đàng Ngoài đều được bí mật báo cáo về triều đình Quinam [Đàng Trong] và nếu ở đấy người ta được biết về những toan tính của chúng ta thì sẽ rất nguy hiểm cho tất cả nhân viên công ty làm việc tại chi điếm Quinam [Đàng Trong]; lúc ấy cái quốc gia tàn bạo này chẳng bao lâu sẽ gây ra một tấn thảm kịch thật sự”[44].
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần đã huy động được rất đông đảo những người tài giỏi[45] ở Đàng Ngoài bất mãn với chúa Trịnh theo về, trong đó có Ký lục Hồ (Phạm Hữu Lễ) cùng con Tú Phượng, đã nguyện đi theo chúa Nguyễn. Về việc này, Nguyễn Khoa Chiêm chép: “Rồi đó ký lục Hồ mật truyền cho người của mình hội họp để liên minh ký tên vào sổ: tất cả hội được 30 viên dũng tướng, tinh binh hơn 2 vạn 5 nghìn người, đều ghi tên giao nộp cho ký lục Hồ. Rồi đó bèn viết khải văn, kèm theo cả sổ ứng nghĩa giao cho bọn Văn Trường đem về Nam tiến nạp”[46]. Hay vào năm 1684, người do thám ở Đàng Ngoài về báo Tây Định Vương đã mất, Phú quận công Trịnh Căn kế vị lúc đang đau ốm phải nằm triều mà chấp chính, thiên hạ bàn tán xôn xao. Hiền vương nghe tin muốn cất quân đánh ra thu phục Trung đô nhưng trong năm ấy mất mùa, kho tàng thiếu hụt nên phải bỏ ý định này[47].
Chúa Nguyễn luôn có một đội quân do thám trên đất Bắc, ngay cạnh kinh thành và phủ chúa Trịnh để có việc gì là cấp báo với chúa Đàng Trong.
Chúa Nguyễn dùng những thương nhân cho việc do thám, Sách Đại Nam thực lục tiền biên cho biết: “Bấy giờ trong nước cường thịnh, chúa muốn cử đại quân Bắc phạt. Thấy tướng Trịnh là Lê Thời Liêu trấn Nghệ An, phòng giữ nghiêm mật, bèn mật khiến người khách buôn Phúc Kiến là Bình và Quý (hai người đều không rõ họ) sang Quảng Tây, theo ải Lạng Sơn mà vào để dò xem tình hình hư thực ở Bắc Hà. Bình và Quý đến Đông Đô, hỏi biết tình trạng quân quốc binh dân, ở 2 tháng lại theo đường cũ mà về Quảng Đông”[48].
Đối với công cuộc mở rộng lãnh thổ về phương Nam, bộ phận do thám cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cập nhật thông tin và cấp báo kịp thời để chúa Nguyễn có những kế sách đối phó. Năm 1713, “Nặc Thu nước Chân Lạp mưu phản, thám tử biết được tình trạng báo lên. Chúa sai đưa thư dụ... Nặc Thu được thư, mưu làm phản bèn thôi”[49].
Dưới thời chúa Nguyễn còn có một lực lượng nữa đó là truyền tin. Lực lượng truyền tin đã được các chúa Nguyễn chú trọng xây dựng nhằm cập nhật một cách chính xác và nhanh chóng nhất những thông tin như chiến trận, tình hình nơi biên giới. Các chúa Nguyễn đã tiến hành xây dựng các trạm, cả đường bộ và đường sông. Ở trên đường bộ thì cấp ngựa, đường thủy thì cấp thuyền. Sách Đại Nam thực lục tiền biên chép: “[Năm 1672] Định thể lệ trạm đường thủy và đường bộ. (Trạm đường thủy cấp cho 4 cái thuyền, mỗi thuyền 6 người phụ chèo, chia làm 16 độ, độ nhất từ Bao Vinh đến Vân Khốt, độ nhì đến Cương Giản, độ ba đến Tam Giang, độ bốn đến Vân Trình, độ năm đến Tháp Quán, độ sáu đến Phương Lang, độ bảy đến Cầu Ngói, độ tám đến An Tiêm, độ chín đến Đông Giám, độ mười đến Hội Môn, độ mười một đến quán Nhĩ Hạ, độ mười hai đến An Mỹ, độ mười ba đến Câu Phụ [Cồn Câu], độ mười bốn đến Độ Thị [Chợ Đò], độ mười lăm đến Châu Thị, độ mười sáu đến Hồ Xá thì lên đường bộ. Trạm đường bộ thì cấp cho 4 con ngựa, chia làm 17 độ. Độ thứ nhất từ Vinh Quang đến Kiều Thị [Chợ Cầu], độ nhì đến Kênh Thị [Chợ Kênh], độ ba đến Châu Thị, độ bốn đến Hồ Xá, độ năm đến Hà Kỳ, độ sáu đến Phật Quán [Quán Bụt], độ bảy đến Liên Quán [Quán Sen], độ tám đến Cát Quán [Quán Cát], độ chín đến Ba Nguyệt, độ mười đến Dâm Hương, độ mười một đến Trà Quán [Quán Trà], độ mười hai đến Thị Quán [Quán Chợ], độ mười ba đến Bối Phụ, độ mười bốn đến Tráng Kiện, độ mười lăm đến Miếu Mít, độ mười sáu đến Cừ Hà, độ mười bảy đến lũy Sa Phụ”[50].
Hệ thống truyền tin của chúa Nguyễn có mặt ở tất cả các dinh ở Đàng Trong. Tùy vào thời gian thành lập dinh mà các trạm truyền tin được xây dựng sớm muộn khác nhau. Theo ghi trong Đại Nam thực lục tiền biên thì bắt đầu từ năm 1672, lập thể lệ đường trạm ở các dinh từ Chính dinh ra đến Quảng Bình. Còn các dinh từ Quảng Nam trở vào Nam xuất hiện trạm truyền tin muộn hơn. Như ở vùng Gia Định thì phải tới năm 1748 mới đặt đường trạm: “Bắt đầu đặt đường trạm ở Gia Định. Đất Gia Định nhiều nơi lầy lội. Khi mới mở mang, đường bộ chưa thông, hành khách đi lại vất vả, việc báo cáo về biên cương cũng không tiện. Chúa sai Hữu Doãn ngắm đo địa thế, chăng dây lấy thẳng bắt đầu từ phía bắc Tất Kiều đến địa phận Hưng Phúc, tùy chỗ mà đặt trạm, gọi là đường thiên lý. Hễ gặp sông to thì sai dân sở tại đặt bến đò, cho miễn dao dịch”[51].
Các trạm truyền tin dưới thời chúa Nguyễn một phần dùng binh lính, một bộ phận khác thuê người để làm việc. Như ở các lộ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Ninh, Phú Yên, Thuận Thành thuê người để đưa tin, hàng năm phải cấp tiền và ngựa[52].
Chú thích
1. Hồng Phước nay là làng Thanh Phước, thuộc xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Trần Đại Vinh (Chủ nhiệm đề tài -1994-1995), Tư liệu Hán Nôm một số làng xã Thừa Thiên Huế, Văn thư-đơn từ (thời chúa Nguyễn-thời Tây Sơn-thời vua Nguyễn), Lưu giữ tại Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, t.4, tr.3.
3. Tháng 3, mở cuộc duyệt binh lớn ở xã An Cựu, xét khí giới cùn sắc để định thưởng phạt. Cơ Trung hầu 10 thuyền 300 người; Nội bộ 60 đội thuyền, hơn 3.280 người; 2 cơ Tả trung và Hữu trung, mỗi cơ 14 thuyền, đều hơn 700 người; Nội thủy 58 thuyền, 6.410 người; cơ Tả trung kiên 12 thuyền, 600 người; cơ Hữu trung kiên 10 thuyền, 500 người; 2 cơ Tả trung bộ và Hữu trung bộ, mỗi cơ 10 thuyền, đều 450 người; cơ Tiền trung bộ 12 đội, mỗi đội 5 thuyền, cộng 2.700 người; 4 cơ Tả dực, Hữu dực, Tiền dực, Hậu dực, mỗi cơ 5 thuyền, cộng hơn 1.100 người; 4 đội Tiền thủy, Hậu thủy, Tả thủy, Hữu thủy, mỗi đội 5 thuyền, đều hơn 500 người, 8 cơ Tả nội bộ, Hữu nội bộ, Tiền nội bộ, Hậu nội bộ, Tả súng, Hữu súng, Tiền súng, Hậu súng, mỗi cơ 6 thuyền, cộng hơn 2.100 người; dinh Tả bộ 10 thuyền, cộng hơn 450 người; 4 đội Tiền bính, Hậu bính, Tả bính, Hữu bính, mỗi đội 4 thuyền, đều hơn 200 người; cơ Tả thủy 5 thuyền, hơn 200 người).[Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, t.1, Nxb Giáo dục, tr.62].
4, 13, 31, 37, 40, 43. Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, mục chia đặt quân hiệu, tr.196-216; tr.176-177; tr.210; tr. 204; tr.210
5. Nhưng trong phủ biên tạp lục cả ba bản dịch (bản dịch năm 1964, 1977 và 2015) viết rằng tổng quân ở Phú Xuân là 30.160 người, nhưng kê ra chỉ có 26.195 người, so với số tổng thì con số kê ra còn thiếu 3.965 người, nghĩa là số bộ binh theo thống kê không chỉ là 17.168 mà nó còn tăng thêm rất nhiều nữa. Con số bộ binh này chưa kể có 2.498 lính (tạp binh) dùng để sai phái các việc sai vặt và canh giữ như lương y, cắt cỏ ngựa, cỏ voi, canh giữ các từ đường, phủ.
6, 7, 16 .Cadière, L. (1929), Những người châu Âu đã thấy Huế xưa: mục sư De Choisy, t.16, tạp chí BAVH, bản dịch năm 2003, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.266-267; tr.266-267; Sđd, tr.266.
8. Cadière, L. (1930), Những người châu Âu đã thấy Huế xưa: Gemelli Cereri, tạp chí BAVH, bản dịch năm 2003, Nxb Thuận Hóa, Huế, t.17, tr.436.
9, 20, 21, 26. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế, tr.132; tr.159; tr.191; 105.
10. Đào Duy Từ (1977), Binh thư yếu lược phụ Hổ trướng khu cơ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
11, 18, 32. Nguyễn Duy Chính tuyển dịch (2016), Đàng Trong thời chúa Nguyễn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.41; tr.38; tr.38.
12. Hiện nay ở xã Điện Phong, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
14; 34 Dẫn theo Li Tana (2014), Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, , Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ, tr.76; 80.
15. Ở đây Choisy có nhầm lẫn vì dinh Cát hay còn gọi là dinh Cũ, Cựu dinh nằm trên đất Quảng Trị nên không phải là biên giới với Đàng Ngoài. Biên giới với Đàng Ngoài lúc này là các dinh nằm trên đất Quảng Bình: dinh Quảng Bình, dinh Ngói (Bố Chính) và Lưu Đồn.
17. Cadière, L và Mir Mme (1920), Les Européens qui ont vu le vieux Hué : Thomas Bowyear 1695-1696, B A V H, (2), tr.183-240. – P.Huar và M.Durand (1954), Connaissances du vietnam. Hà Nội, École Francaise d’ Extrême-Orient, tr.299.
19. Hiện nay, tại Trung tâm quản lý di tích Hội An vẫn còn lưu giữ những hình ảnh về loại thuyền này và một mô hình thuyền đã được nghệ nhận làng Kim Bồng tái tác lại.
22. Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Hồng Nhuệ dịch, Tủ sách Đại Kết, Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, tr.12.
23, 27, 31 Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Hồng Nhuệ-Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, tr.86; tr.37; tr. 40.
24, 25 Pierre Poivre (2008), Miêu tả tr.83.xứ Đàng Trong, 1749-1750, Huỳnh Thị Anh Vân dịch, tạp chí Huế Xưa & Nay, số 87,88, 89, tr.63.
27. Borri, C. (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621,Sđd
28. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Sđd, tr.92; Pierre Poivre (2008), Miêu tả xứ Đàng Trong, 1749-1750, TLđd, tr.71; Cadière, L (2003), Những người châu Âu đã thấy Huế xưa: mục sư De Choisy, Sđd, tr.260.
29. Koffler, J,. Hồi ký lịch sử Nam Kỳ, Bản dịch viết tay Trường Đại học Khoa học Xã hội-Nhân Văn Hà Nội, ký hiệu VT 362, tr.5.
30. 36, 41, 48, 49, 50, 51, 52. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.103; tr.84-88; tr.41; tr.136; tr.128-129; tr.85-86; tr.155; tr.131.
35, 46, 47. Nguyễn Khoa Chiêm (1987), Trịnh - Nguyễn diễn chí (Nam triều công nghiệp diễn chí), Sở Văn hóa Thông tin Bình-Trị-Thiên xuất bản , t.2, tr.68; tr.144; tr.539.
38, 39. Nguyễn Khoa Chiêm (2016), Nam triều công nghiệp diễn chí, Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thị Thúy Nga dịch, chú và giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.573; tr.537.
42. Kỵ binh vốn không phải là thế mạnh của Đại Việt. Ngựa ở nước ta cũng khá nhỏ so với các nước Trung Quốc, Mông Cổ hay phương Tây.
44. Maybon, Charles B. (2011), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.39
45. Bấy giờ Nguyễn Hữu Dật muốn được ngoại ứng để chia lực lượng quân Trịnh, bèn khiến bọn Văn Tường và Hoàng Sinh đem mật thư lẻn đến các trấn Bắc Hà để chiêu dụ hào kiệt, hẹn cùng nổi lên. Ở Cao Bằng thì Mạc Kính Hoàn, ở Hải Dương thì tên Phấn (không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công), ở Sơn Tây thì Phạm Hữu Lễ đều vâng mệnh, nói rằng: Hễ quân chúa qua sông Lam thì xin phát binh hưởng ứng, Hải Dương thì không nộp tô thuế để cho tuyệt lương, Cao Bằng thì tiến chiếm Đoàn Thành (nay là tỉnh lỵ Lạng Sơn) để chia thế lực, Sơn Tây thì nguyện làm nội ứng để cướp lấy thành. Bọn Văn Tường về báo, Hữu Dật mừng bảo Hữu Tiến rằng: “Lòng người như thế, xin sớm định kế hoạch, để xong công lớn”.[ Quốc Sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Sđd, t.1, tr.67]
Tin liên quan
Sau khi vua Tự Đức băng hà, triều Nguyễn rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về vấn đề k...
Loạt ảnh tư liệu quý về sông An Cựu thập niên 1920 hay còn gọi là sông Phủ Cam, Lợi N...
Cũng được xem là một địa điểm thuộc quần thể di tích Cố đô Huế, song ít ai biết tới n...
Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu - Thánh Cung Hoàng Thái Hậu Nguyễn Hữu Thị Nhàn (1870-1935)...