Tài khoản
HUẾ – Sừng sững uy nghi ở phía Nam Hoàng Thành, Ngọ Môn không chỉ là một kiệt tác kiến trúc mà còn là linh hồn, biểu tượng vượt thời gian của Huế - kinh đô xưa của Việt Nam. Công trình mang tính biểu tượng này, một tuyệt tác của triều Nguyễn, đã chứng kiến bao thế kỷ thăng trầm, từ những nghi lễ hoàng gia trọng đại đến những thời khắc lịch sử định hình lại đất nước.
Huế, thành phố nổi tiếng với những di sản văn hóa và thiên nhiên phong phú từ sông Hương, núi Ngự đến chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, luôn dành một vị trí đặc biệt cho Ngọ Môn. Nếu các danh thắng tự nhiên mang vẻ đẹp vốn có, thì Ngọ Môn, cùng với tháp Phước Duyên, cầu Trường Tiền... lại là những biểu tượng văn hóa mang ý nghĩa sâu sắc. Ngọ Môn là hiện thân của chốn cung đình, của văn hóa đế vương mà Huế từng là "Thần Kinh" trong hàng thế kỷ.
Một kiệt tác kiến trúc
Được xây dựng vào năm 1833 dưới triều vua Minh Mạng, Ngọ Môn thay thế cho Nam Khuyết Đài trước đó. Thiết kế của công trình vừa uy nghi, bề thế lại vừa tinh xảo, phức tạp. Ngọ Môn gồm hai phần chính: phần nền đài đồ sộ hình chữ U bằng đá và gạch, cao hơn 5 mét, và phía trên là Lầu Ngũ Phụng thanh thoát, tao nhã.
Phần nền đài có 5 lối vào. Lối đi chính giữa, lớn nhất, là Ngọ Môn, xưa kia chỉ dành riêng cho nhà vua. Hai lối nhỏ hơn hai bên, Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn, dành cho các quan văn, võ. Hai lối đi vòng ngoài cùng, Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh lính, ngựa và voi.
Lầu Ngũ Phụng là một tòa lầu hai tầng bằng gỗ tráng lệ với hệ thống 9 bộ mái phức tạp, lợp ngói hoàng lưu ly (vàng) và thanh lưu ly (xanh), tạo hình ảnh như năm con phượng hoàng đang duyên dáng hạ cánh. Toàn bộ công trình với 100 cây cột gỗ lim, được xây dựng hết sức công phu, sử dụng vật liệu chất lượng cao và kỹ thuật tiên tiến thời bấy giờ, thậm chí tương truyền còn dùng mật mía trộn vào vữa để tăng độ bền chắc. Những bài thơ khắc trên cổng thể hiện niềm tự hào của thời đại và khát vọng hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Hơn cả một cánh cổng
Ngọ Môn không chỉ đơn thuần là một lối ra vào mà còn là một lễ đài quan trọng bậc nhất. Tại đây, nhà vua chủ trì các sự kiện trọng đại như lễ Truyền Lô (xướng danh các tiến sĩ tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới), và các cuộc duyệt binh lớn.
Điều thú vị là, dù có cùng tên và kiến trúc hình chữ U với Ngọ Môn ở Tử Cấm Thành Bắc Kinh, Ngọ Môn Huế lại mang những nét đặc trưng riêng biệt. Đây là cổng chính của toàn bộ Hoàng Thành Huế, khác với cổng ở Bắc Kinh dẫn vào Tử Cấm Thành bên trong. Hơn nữa, Ngọ Môn Huế thường được ca ngợi về sự hài hòa với cảnh quan xung quanh, bao gồm hào Kim Thủy và các cây cầu bắc qua, tạo nên một vẻ đẹp thơ mộng và ít phần áp đảo hơn. Nét thẩm mỹ của công trình là sự pha trộn giữa vẻ bề thế và nét tinh tế độc đáo của Việt Nam.
Chứng nhân lịch sử
Ngoài vai trò nghi lễ, Ngọ Môn còn là chứng nhân thầm lặng của những biến chuyển lịch sử sâu sắc. Công trình từng mang dấu ấn của thời kỳ Pháp thuộc khi có những thay đổi để xe ô tô của phương Tây có thể đi qua. Quan trọng nhất, chính tại lễ đài Ngọ Môn ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam, đã đọc Chiếu thoái vị, chính thức chấm dứt hàng ngàn năm chế độ quân chủ phong kiến trên đất nước.
Một di sản bất diệt
Ngày nay, Ngọ Môn vẫn là một biểu tượng được trân trọng, ăn sâu vào tâm thức văn hóa của người dân Huế và cả nước. Hình ảnh Ngọ Môn xuất hiện trong các làn điệu dân ca và cùng với cầu Trường Tiền, trở thành biểu tượng chính thức của thành phố Huế. Sự hiện diện trường tồn của Ngọ Môn là một lời nhắc nhở mạnh mẽ về di sản hoàng gia phong phú của Huế và vai trò trung tâm văn hóa lịch sử của Việt Nam, thực sự là nơi, như một quan chức UNESCO từng nhận định, "quá khứ và hiện tại chung sống hài hòa", nơi cố đô cổ kính song hành cùng một thành phố trẻ năng động.
Tin liên quan
Cửu Đỉnh nhà Nguyễn chính là 9 chiếc đỉnh bằng đồng được vua Minh Mạng ra lệnh chế tá...